7
Mi-ca bất bình về điều ác
dân chúng làm
Khốn nạn cho tôi! Tôi như người đói,
vì tất cả trái cây mùa hạ đã được hái rồi,
đâu còn trái nho mà ăn,
trái vả đầu mùa tôi ưa thích cũng không thấy.
Tất cả những người trung thành
đều đã biến mất;
trên đất nầy không còn lấy một người nhân đức.
Ai nấy đều chực giết hại người khác;
Ai cũng lăm le đánh bẫy kẻ khác.
Chúng dùng cả hai tay làm điều ác.
Quan cai trị thì sách nhiễu đòi tiền bạc,
còn những phán quyết của quan án
cũng có giá mua được.
Kẻ giàu cho biết họ muốn gì,
và có được điều họ muốn.
Người tốt nhất của họ
cũng chỉ như bụi gai;
kẻ lương thiện nhất của họ
còn xấu hơn cây gai,
Ngày trừng phạt sắp đến
Cái ngày mà người tuần canh* người tuần canh Một từ ngữ khác ám chỉ các nhà tiên tri. Họ được ví như người lính canh đứng trên vách thành và canh chừng kẻ thù đến. cảnh cáo các ngươi đã đến.
Bây giờ họ sẽ bị bối rối.
Đừng tin người láng giềng,
hay tin cậy bạn bè.
Đừng nói gì cả,
dù với vợ mình cũng vậy.
Con trai không còn tôn kính cha mình,
con gái cũng chống nghịch lại mẹ mình,
con dâu chống lại mẹ chồng;
và ai nấy đều có kẻ thù là người nhà mình.
Lòng nhân từ của Chúa
Ít-ra-en nói, “Ta sẽ hướng lòng,
trông đợi CHÚA cứu giúp.
Ta sẽ chờ đợi Thượng-Đế giải cứu ta;
Ngài sẽ nghe tiếng ta.
Hỡi kẻ thù, đừng cười nhạo ta.
Ta ngã té, nhưng sẽ đứng dậy.
Ta hiện ngồi trong tối tăm khốn khó,
Nhưng CHÚA sẽ làm ngọn đèn cho ta.
Ta đã phạm tội cùng CHÚA,
nên Ngài nổi giận cùng ta,
nhưng Ngài sẽ bênh vực ta trước tòa.
Ngài sẽ mang đến cho ta lẽ công bằng.
Rồi Ngài sẽ mang ta ra ánh sáng,
và ta sẽ thấy Ngài làm đúng mọi việc.
10 Sau đó kẻ thù ta sẽ trông thấy điều đó,
chúng sẽ xấu hổ;
những kẻ nói cùng ta,
‘CHÚA là Thượng-Đế ngươi đâu?’
Ta sẽ cười nhạo cười nhạo Nguyên văn, “mắt ta sẽ nhìn chúng.” chúng.
Chúng sẽ bị người ta dẫm lên,
như bùn ngoài đường.”
Ít-ra-en sẽ hồi hương
11 Sẽ đến thời kỳ mà các vách thành ngươi được xây lại,
khi đất nước ngươi bành trướng.
12 Lúc đó dân chúng ngươi sẽ trở về cùng ngươi
từ A-xy-ri và các thành phố Ai-cập,
và từ Ai-cập cho đến sông Ơ-phơ-rát,
từ biển nầy đến biển kia,
từ núi nầy đến núi nọ.
13 Đất sẽ bị tiêu hao vì dân sống trong đó
và vì những điều họ làm.
14 Vậy hãy chăn chiên bằng gậy mình;
hãy chăn những người thuộc về ngươi.
Bầy chiên đó hiện sống cô độc trong rừng
ở giữa mảnh đất làm vườn.
Hãy để họ ăn cỏ trong Ba-san
và Ghi-lê-át như xưa kia.
Ít-ra-en sẽ chiến thắng kẻ thù
15 “Như lúc ta mang các ngươi ra khỏi Ai-cập,
ta sẽ cho họ thấy phép lạ.”
16 Khi các dân nhìn thấy các phép lạ đó,
họ sẽ không còn huênh hoang
về thế lực mình nữa.
Họ sẽ lấy tay che miệng, không chịu nghe.
17 Họ sẽ bò trong bụi cát như rắn,
như côn trùng bò trên đất.
Họ sẽ từ trong lỗ bò ra run rẩy,
đến cùng CHÚA là Thượng-Đế chúng ta và sẽ run sợ trước mặt ngươi.
Hãy ca ngợi Chúa
18 Không có Thượng-Đế nào giống như Ngài.
Ngài tha thứ những kẻ phạm tội;
Ngài không nhìn vào tội lỗi của dân Ngài là dân sống sót.
Ngài không căm giận mãi mãi,
vì Ngài đầy lòng nhân từ.
19 Ngài sẽ lại thương xót chúng tôi;
Ngài sẽ chiến thắng tội lỗi chúng tôi.
Ngài sẽ ném tội lỗi chúng tôi
vào trong nơi sâu thẳm của biển.
20 Lạy Thượng Đế, xin hãy chân thật cùng dân cư Gia-cốp,
và nhân từ đối cùng con cháu Áp-ra-ham Áp-ra-ham Trong câu nầy danh từ Áp-ra-ham ám chỉ toàn dân Ít-ra-en. Xem “Áp-ra-ham” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
như Ngài đã hứa từ xưa cùng tổ tiên chúng tôi.

*7:4: người tuần canh Một từ ngữ khác ám chỉ các nhà tiên tri. Họ được ví như người lính canh đứng trên vách thành và canh chừng kẻ thù đến.

7:10: cười nhạo Nguyên văn, “mắt ta sẽ nhìn chúng.”

7:20: Áp-ra-ham Trong câu nầy danh từ Áp-ra-ham ám chỉ toàn dân Ít-ra-en. Xem “Áp-ra-ham” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.